Trong bối cảnh lo ngại về khủng hoảng ngân hàng lắng dịu, giới đầu tư dường như nghiêng về các tài sản rủi ro nhiều hơn, qua đó khiến đồng yên Nhật trượt giá so với các đồng tiền khác. Cặp NZD/JPY được đà vọt lên mức trần trong ngắn hạn.

Nội dung bài viết
Dữ liệu kinh tế mới
Doanh số nhà chờ bán tại Mỹ đã tăng 0,8% hàng tháng trong tháng 2 so với mức giảm ước tính 2,9% và mức tăng 8,1% trước đó, đánh dấu tháng tăng thứ ba liên tiếp
Đồng yên Nhật tiếp tục trượt giá so với các đồng tiền lớn khác trong phiên giao dịch tại thị trường Mỹ, trước khi phục hồi một phần nhịp giảm trong các giờ giao dịch đầu phiên châu Á.
Có vẻ như do khối ngân hàng vắng bóng các tin tức tiêu cực nên các loại tiền tệ trú ẩn an toàn đã sụt giảm trở xuống, nhất là khi giới trader hạ tỷ trọng các loại tài sản an toàn.

Hầu hết các loại tiền tệ lớn vẫn tích lũy chặt trong biên độ hẹp ở phần lớn thời gian của phiên giao dịch do dữ liệu đưa ra rất ít, nhưng đồng yên có vẻ sắp tiếp tục trượt dốc vào cuối ngày hôm nay.
Giới đầu tư tiếp tục chờ đợi báo cáo chỉ số CPI cơ bản Tokyo và dữ liệu sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ sơ bộ của Nhật Bản.
Chỉ số niềm tin kinh doanh ANZ của New Zealand đã giảm từ -43,3 xuống -43,4 trong tháng 3, do các chỉ số lạm phát giảm nhẹ.
Phân tích kĩ thuật cặp NZD/JPY

Nhờ thị trường thu hút được dòng vốn đầu cơ rủi ro nên điều này đã giúp nâng tỷ giá NZD/JPY lên ngay mức trần của kênh tăng ngắn hạn trên khung thời gian 15 phút.
Nếu mức kháng cự này cản được đà tăng, NZD/JPY có thể sẽ quay trở lại đáy kênh xung quanh mốc tâm lý 82,50 và điểm xoay pivot. Điểm pivot này có thể sẽ thu hút lực mua.
Trong trường hợp NZD/JPY điều chỉnh xuống sâu hơn, tỷ giá của cặp này có thể rơi xuống đường xu hướng tăng vốn đã được duy trì trong vài ngày qua. Ngưỡng hỗ trợ có thể sẽ xuất hiện ngay xung quanh mức tâm lý 82,00 gần vị trí S1 (82,04).
Đồng NZD khó có thể giữ được đà tăng do niềm tin kinh doanh sụt giảm, mặt khác, với tình hình khẩu vị rủi ro ngày càng tăng, rất có thể NZD/JPY sẽ vượt qua đỉnh kênh và kiểm định lại các mức kháng cự tiếp theo tại R1 (83,05) và R2 (83,38).